Ba bản Nam: Nam Ai

Bài này sẽ viết về bài thứ nhất trong Ba bài Nam: Nam Ai trong cải lương.

Ba bản Nam: Nam Ai

Từ Nhạc cung đình đến cải lương

Ba bài Nam có mặt trong 20 bài bản tổ của cải lương, được xếp vào mùa thu nên giọng nhạc mang nét trầm buồn, ai oán. Bộ ba này được xem là một tuyệt tác trong đờn ca tài tử, mỗi bài mang một âm điệu khác nhau và được sử dụng rất phổ biến. Trong đó, Nam Ai là bi thương, ai oán và kinh điển nhất của sân khấu cải lương.

Nam Ai, có một hành trình lịch sử lâu dài và phức tạp, bắt nguồn từ chốn cung đình uy nghiêm, được tinh luyện qua nghệ thuật ca Huế, đờn ca tài tử trước khi trở thành một phần không thể thiếu, chuyên chở những cung bậc cảm xúc bi lụy nhất trong các vở diễn, bài ca cải lương đến ngày nay.

Vào cuối thế kỷ 19, khi bức màn nhung của triều đại phong kiến dần khép lại, những người nhạc công tài hoa đã mang tiếng đờn của mình rời khỏi cung cấm, hòa vào đời sống dân gian. Tiếng nhạc cung đình gặp gỡ những điệu lý, câu hò của miền Trung mà hình thành nên nghệ thuật Ca Huế thính phòng. Theo bước chân lưu dân vào khai phá miền đất phương Nam trù phú và phóng khoáng, những điệu ca Huế ấy, bao gồm cả Nam Ai, lại tiếp tục cuộc hành trình, giao thoa với âm nhạc bản địa để làm nên một hình thức nghệ thuật mới: đờn ca tài tử. Đây là một bước chuyển mình vô cùng quan trọng, đưa những giai điệu vốn bác học, uy nghiêm đến gần hơn với giới mộ điệu bình dân.

Đến đầu thế kỷ 20, khi ánh đèn sân khấu cải lương lần đầu rực sáng, các bậc tiền nhân đã không ngần ngại chắt lọc những tinh hoa từ đờn ca tài tử để xây dựng nên cơ nghiệp. Và dĩ nhiên, với thế mạnh biểu đạt nỗi niềm bi thương đến tột cùng, Nam Ai đã nhanh chóng được lựa chọn. Trên sân khấu, Nam Ai thường vang lên ở những lớp diễn cao trào nhất, bi kịch nhất: là cảnh chia ly tử biệt, là nỗi oan khuất không lời nào tỏ, là tâm trạng đau đớn đến quặn thắt cõi lòng của nhân vật. Giai điệu ai oán, não nề của nó như một lưỡi dao cứa vào tâm can người xem, khiến họ phải khóc, phải đồng cảm sâu sắc với số phận nhân vật. Biết bao vở tuồng kinh điển đã lấy đi không biết bao nhiêu nước mắt của khán giả chỉ bằng vài câu Nam Ai thống thiết.

Cấu trúc bản Nam Ai

Bản Nam Ai nguyên gốc là một tác phẩm đồ sộ và phức tạp, hiếm khi được trình diễn trọn vẹn trong các chương trình thông thường. Cấu trúc đầy đủ của nó gồm:

- Độ dài: Toàn bài có 84 câu.
- Phân đoạn (Lớp): 84 câu này được chia thành 10 lớp (hay 10 đoạn nhạc).
- Khúc Dạo Đầu: Trước khi vào lớp 1, thường có 4 câu nhạc dạo đầu đặc biệt gọi là "Phản Xuân qua Ai" để dẫn dắt mở đường vào không khí ai oán của toàn bài.

Với quy mô kỳ công như vậy, việc trình diễn đầy đủ bản Nam Ai là một thách thức, đòi hỏi tài năng và sự am tường sâu sắc của cả người đờn lẫn người ca, và thường chỉ xuất hiện trong những dịp mang tính bảo tồn, học thuật hoặc trong các chương trình đờn ca tài tử chuyên sâu.

Cấu trúc Nam Ai phổ biến

Để phù hợp với tiết tấu của vở diễn và khả năng thưởng thức của địa chúng, các nghệ sĩ thường sử dụng những phiên bản Nam Ai rút gọn. Phổ biến nhất là:

- Nam Ai 8 câu: Đây là phiên bản thông dụng nhất, thường chính là Lớp 1 của bản gốc. Với sự cô đọng, súc tích, phiên bản 8 câu được sử dụng rộng rãi trong các trích đoạn cải lương, tân cổ giao duyên, đặc biệt là những tình huống bi kịch cần đẩy cảm xúc lên cao trào.
- Nam Ai 12 câu và 16 câu: Những phiên bản dài hơn một chút, cho phép nghệ sĩ có thêm không gian để phô diễn kỹ thuật và đào sâu hơn vào các cung bậc cảm xúc của nhân vật.
- Ngoài ra, còn có một biến thể được gọi là Nam Ai Lớp Mái (hoặc Mái Ai), cũng là một phần của hệ thống bài bản Nam Ai, thường được dùng để diễn tả nỗi buồn man mác, nhớ nhung, khắc khoải.

Về nhịp điệu, Nam Ai viết theo nhịp tư (4 nhịp chính mỗi câu). Cái hay của Nam Ai nằm ở hơi Nam, với cách nhấn và rung mạnh ở chữ Xự, chữ Xang. Đặc biệt khi qua lớp Mái, tiếng đờn nhấn rung mạnh ở chữ Cộng nghe nức nở, tuyệt vọng. Cảm giác nghẹn ngào như tiếng khóc ấy một phần cũng do kỹ thuật đảo phách tinh tế trong lòng câu, tạo nên một nét đặc trưng không thể trộn lẫn.

Các Lớp Nam Ai kinh điển trong cải lương

Sức sống của Nam Ai chỉ thực sự thăng hoa khi nó được cất lên qua giọng ca và nỗi niềm của người nghệ sĩ trong những vở tuồng kinh điển: 

Trong Lan và Điệp (Thanh Kim Huệ ca)

Tôi vùi chôn xác bướm khô nơi đáy mộ. Như vùi sâu chôn kín nỗi niềm...riêng.
Đã từ lâu...đeo đẳng trong lòng. Chôn cành lan khô, như chôn mảnh tơ lòng. Hai nấm mồ song song để, Xuân, Hạ, Thu, Đông. Dẫu mưa nắng dãi dầu, cùng hứng chịu chung đôi.
Chú đã đem thân...gởi chốn cửa thiền. Sao lòng còn vương vấn chuyện thế gian? 
Kể từ bây giờ, tôi quên hết chuyện xưa. Xác bướm cành Lan đã vùi sâu nơi đáy mộ. Là chôn đi bao nỗi đau buồn. 
Sao giọng nói chú nghẹn ngào? 
Sao lệ đẫm hoen mi?

Trong Người tình trên chiến trận (Thanh Tuấn  - Mỹ Châu ca)

Không! Yêu nhau không bao giờ có tội. Nhưng anh chỉ muốn nói với em một điều mà bấy lâu ôm ấp mãi trong... tim. Mà giờ đây đã muộn màng rồi, anh có còn gì nữa đâu. Để nhớ thương những kỷ niệm trong đời. Mình đã một thời chắt chiu, trong tuổi còn thơ ấu hồn nhiên. Để tạo dựng một thiên đường, một thiên đường đầy hoa thơm.
Lời anh nói ra em đâu hiểu được gì. Anh đã buồn đã khổ vì ai, và từ bao lâu rồi? Cho mãi đến ngày hôm nay.
Đã từ lâu anh muốn nói một điều quan trọng, nhưng cứ lặng câm theo ngày tháng lạnh lùng. Anh muốn nói với một người, nỗi đau sầu vì... yêu.

Phản ứng của bạn là gì?

like

dislike

love

funny

angry

sad

wow