NSND Út Trà Ôn – Huyền Thoại Vọng Cổ Miền Nam

Làn hơi đồng độc nhất của ông Vua vọng cổ - Út Trà Ôn

NSND Út Trà Ôn – Huyền Thoại Vọng Cổ Miền Nam

Từ Cậu Mười Út miền quê đến Vua vọng cổ - Út Trà Ôn

Ở miệt sông nước Miền tây, thử hỏi có ai mà không biết đến Tình Anh Bán Chiếu. Tiếng ca "Chiếu Cà Mau nhuộm màu tươi thắm, công tôi cực lắm mưa nắng dãi dầu, chiếu này tôi chẳng bán đâu. Tìm cô không gặp, tôi gối đầu mỗi đêm..." cất lên từ chiếc máy radio cũ kỹ, qua giọng ca trầm ấm, mùi mẫn của người nghệ sĩ tài danh Út Trà Ôn, nó không còn là câu vọng cổ bình thường nữa, mà đã hóa thành một phần hồn cốt của văn hóa miền Nam. Người ta đã ưu ái gọi ông bằng những cái tên trân quý nhất: "Đệ nhất danh ca" hay ông "Vua vọng cổ".

Cái tên Út Trà Ôn nghe mộc mạc, chân quê như chính con người và giọng hát của ông. Tên thật của ông là Nguyễn Thành Út, sinh năm 1919 tại làng Đông Hậu, huyện Trà Ôn, cái xứ sở hiền hòa của tỉnh Cần Thơ xưa (nay là Vĩnh Long). Ông là con thứ mười, cũng là con út, nên bà con lối xóm hay gọi thân mật là cậu Mười Út. Nhiều người kể lại rằng tuổi thơ của ông lắm cơ cực, cha mẹ mất sớm, mới 13 tuổi đã phải ra đồng làm lụng vất vả. Chính giữa những ngày tháng bán mặt cho đất, bán lưng cho trời ấy, ca hát trở thành niềm vui và nguồn an ủi lớn nhất của cậu bé Mười Út. Giọng ca trời phú của cậu nhanh chóng được bà con trong xóm trong làng thương mến. Mỗi khi làng có hội cúng Kỳ Yên, người ta lại nhờ cậu ra xướng danh cho hương chức hội tề làm lễ.

May mắn làm sao, tài năng ấy đã lọt vào mắt xanh của các nhạc sư trong vùng, họ thương tình truyền dạy cho cậu 20 bài bản tổ của cổ nhạc. Cùng với đó là sự khổ luyện không ngừng nghỉ của bản thân, tự mày mò cách vô câu, sắp chữ, luyến láy sao cho thật mùi. Năm 1937, chàng trai Mười Út 18 tuổi khăn gói lên Sài Gòn, với vốn liếng chỉ là giọng hát và niềm đam mê cháy bỏng. Giọng ca ấm áp, đậm chất phù sa miền Tây của ông khi cất lên trên Đài phát thanh Sài Gòn đã nhanh chóng chinh phục trái tim của biết bao thính giả. Nghệ danh Út Trà Ôn, cái tên ghép giữa tên thân mật và quê hương nguồn cội, cũng ra đời từ đó.

Đỉnh vinh quang và ngôi vị 'Vua vọng cổ' bất tử

Chỉ hai năm sau ngày lên Sài Gòn, ông đã giành giải nhất trong một cuộc thi ca cổ nhạc. Tên tuổi ông cứ thế nổi lên như diều gặp gió, đặc biệt là khi ông thu thanh cho hãng đĩa Asia với các bài vọng cổ như Thái Sư Văn Trọng gián thập điều được phát trên Đài Pháp Á, tạo nên một phong trào nghe vọng cổ sâu rộng chưa từng thấy. Nhưng phải đợi đến năm 1959, khi bản Tình Anh Bán Chiếu của Vua soạn giả - Viễn Châu được hãng dĩa Hồng Hoa phát hành, thì tên tuổi Út Trà Ôn mới thực sự bước lên đỉnh cao chói lọi nhất. Giọng ca khắc khoải, ai oán của ông đã thổi hồn vào câu chuyện tình lỡ làng của chàng trai bán chiếu, biến nó thành một kiệt tác bất hủ, đưa ông lên ngôi vị Vua vọng cổ trong lòng triệu triệu công chúng. Từ đó, cái duyên của Vua soạn giả với Vua vọng cổ còn kéo dài đến sau này.

Tất nhiên, sự nghiệp của ông không chỉ có một Tình Anh Bán Chiếu. Ngay từ bài vọng cổ đầu tiên làm nên tên tuổi, Tôn Tẫn giả điên, người ta đã thấy ở ông một tài năng kiệt xuất. Ca một bài vọng cổ dài 20 câu như vậy đâu phải chuyện dễ, nó đòi hỏi người ca phải có một làn hơi dài thăm thẳm, một cái tài sắp chữ, nhả chữ thiệt điêu luyện để diễn tả hết cái điên dại bên ngoài mà ẩn chứa sự khôn ngoan, đau đớn của nhân vật. Út Trà Ôn đã làm được điều đó một cách xuất sắc. Rồi người ta lại say mê ông qua Ông Lão Chèo Đò, cũng của Vua soạn giả - Viễn Châu. Qua giọng ca của ông, hình ảnh ông lão cô đơn trên con đò chiều, hiện lên thật đến nao lòng. Giọng ca trầm ấm, rền rĩ của ông như chở nặng nỗi buồn của cả một kiếp người, làm ai nghe cũng phải ngậm ngùi, thương cảm. Hay trong Sương Khói Rừng Khuya song ca cùng nghệ sĩ Ngọc Giàu, giọng ca của ông lại hóa thành lời tâm sự da diết, hòa quyện tuyệt vời với giọng ca của bạn diễn, tạo nên một tuyệt phẩm vọng cổ cải lương.

Không chỉ là vua của những bản vọng cổ thu đĩa, Út Trà Ôn trên sân khấu cũng là một anh kép tài tình. Ông thổi hồn vào các nhân vật trong những vở tuồng kinh điển như Tuyệt Tình Ca (ông Cò quận 9), Nửa Đời Hương Phấn hay Lưu Bình Dương Lễ. Ông không kén vai, vai nào ông cũng diễn bằng cái tình, bằng sự chân thật, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng khán giả. Sự nổi tiếng của Út Trà Ôn không chỉ mang lại danh vọng mà còn làm thay đổi cả giá trị kinh tế của người nghệ sĩ cải lương. Năm 1948, ông ký hợp đồng với bầu gánh Tiến Hóa với số tiền kỷ lục 50.000 đồng, một con số khổng lồ thời bấy giờ. Sau này, những hợp đồng của ông với các đại ban như Thanh Minh có giá trị lên tới cả triệu đồng, còn thù lao mỗi suất diễn vào ngày lễ có thể tương đương một cây vàng.

Xuyên suốt sự nghiệp của mình, ông gắn bó với rất nhiều đoàn hát danh tiếng, nhưng mối duyên nghệ thuật đậm sâu nhất phải kể đến là với soạn giả Viễn Châu. Người ta nói rằng, Viễn Châu đã sáng tác hơn hai ngàn bài vọng cổ, và Út Trà Ôn chính là người đã chắp cánh cho phần lớn những tác phẩm ấy bay cao, bay xa, ăn sâu vào tâm khảm người mộ điệu. Điều làm nên sự đặc biệt trong giọng ca của Út Trà Ôn chính là cái chất hơi đồng trầm ấm, phong thái ca ngâm thì khoan thai, chững chạc nhưng vẫn đầy truyền cảm. Ông được xem là bậc thầy về sắp chữ, hành văn trong câu vọng cổ, câu nhiều chữ ông ca vẫn gọn, câu ít chữ kéo dài vẫn duyên, chữ nào ra chữ đó, tròn vành, chắc nhịp. Phong cách của ông là sự mộc mạc, chân phương, không trưng trổ kỹ thuật một cách thái quá mà đi thẳng vào cái hồn của bài ca, cái tình của nhân vật.

Sau ánh hào quang: Một tấm lòng chân chất, một di sản để đời

"Giàu sang" và lừng lẫy trên sân khấu là vậy, nhưng ngoài đời, NSND Út Trà Ôn lại sống một cuộc đời rất đỗi giản dị, khiêm nhường. Ông là người chồng thủy chung, chỉ có một người vợ duy nhất và hết lòng yêu thương gia đình. Có một điều kỳ diệu mà người trong nghề ai cũng nể phục, đó là Út Trà Ôn sở hữu một trí nhớ phi thường. Ông có thể thuộc nằm lòng vanh vách những tuồng tích dài, những bài ca khó mà không cần nhìn đến kịch bản. Tài năng ấy quả thực là do "Tổ đãi", là sự thấu hiểu nghệ thuật bằng cả tâm hồn, bằng trực giác của một người con sinh ra từ mảnh đất Nam Bộ.

Dù có những lúc làm bầu gánh hát thua lỗ, cuộc sống gặp khó khăn, nhất là sau năm 1975, ông vẫn giữ một niềm tin sắt đá. Câu nói nổi tiếng của ông: "Công chúng còn thương tôi thì sợ chi nghèo đói", đã gói trọn triết lý sống và làm nghề của một người nghệ sĩ chân chính, người xem tình yêu của khán giả là tài sản quý giá nhất. Sau khi sân khấu bớt sôi động, ông vẫn không rời xa nghệ thuật. Ông tiếp tục cống hiến cho các đoàn hát, rồi làm giám khảo cho các cuộc thi, dìu dắt thế hệ trẻ cho đến tận lúc sức yếu. Năm 1997, Nhà nước đã phong tặng ông danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân, một sự ghi nhận xứng đáng cho cả một đời cống hiến.

Ngày 13 tháng 8 năm 2001, "ông vua vọng cổ" đã từ trần, hưởng thọ 82 tuổi. Ông được an táng tại Chùa Nghệ Sĩ ở Gò Vấp, về với đất mẹ trong sự tiếc thương vô hạn của đồng nghiệp và hàng triệu người hâm mộ. Thân xác ông có thể đã đi xa, nhưng di sản nghệ thuật của ông, giọng ca của ông sẽ còn sống mãi. Tiếng hát ấy vẫn vang lên đâu đó mỗi ngày, trong những quán nhỏ ven đường, trong những ngôi nhà ở miệt vườn, như dòng Cửu Long hiền hòa, mãi mãi bồi đắp cho mảnh đất văn hóa phương Nam thêm đậm đà, tình nghĩa.

Phản ứng của bạn là gì?

like

dislike

love

funny

angry

sad

wow